Skip to content

Đăng ký nộp bài nghiên cứu khoa học: Xem chi tiết

Mục lục

Tác dụng sinh học của polyphenol trong chè xanh

Tác giả: , , ,

Ngày:

Summary

Tea(Camellia sinensis) is a common and traditional drink in many countries including Vietnam. The health benefits of drinking tea is in accordant with high polyphenol content with a lot of biological properties. Antioxidant, anti inflammatory, and antimicrobial activities are the main functions of these compounds. The present work aims to review some common biological activities of green tea polyphenol. The activities are investigated and reported using chemical reactions, in vitro, and in vivo models. The information is of useful for understanding the properites of polyphenols so as to propose further investigation on their pharmacological properties and development of health products from green tea.

Key words: Camellia sinensis, polyphenol, antioxidant, anti-inflamatory, antimicrobial

1. Đặt vấn đề

Chè xanh (Camellia sinensis) là loại đồ uống có từ lâu đời trong lịch sử của nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là các nước khu vực Châu Á như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn độ, và Việt Nam. Ngoài tác dụng là loại đồ uống hàng ngày, chè xanh còn được coi là một vị thuốc trong y học cổ truyền của nhiều nước như Trung quốc, Việt Nam. Các thành phần hóa học trong chè xanh đã được nghiên cứu và công bố chủ yếu là các hợp chất polyphenols. Trong chè xanh, thành phần polyphenol chính bao gồm Epicatechin (EC), Epigallocatechin (EGC), Epicatechin gallate (ECG) và Epigallocatechin gallate (EGCG).[1] Nhiều nghiên cứu đã được thực hiện để đánh giá hoạt tính sinh học của các hợp chất polyphenol trong chè xanh bao gồm hoạt tính chống oxy hóa, hoạt tính kháng viêm, hoạt tính kháng ung thư, khả năng chống lại bện tiểu đường, béo phì.[2] Trong bài viết này, chúng tôi sẽ phân tích các hoạt tính sinh học quan trong của polyphenol trong chè xanh làm cơ sở để nghiên cứu và phát triển các sản phẩm hỗ trợ sức khỏe từ loại sản phẩm phổ biến và có giá trị này.

2. Hoạt tính chống oxy hóa của polyphenol trong chè xanh

Hoạt tính chống oxy hóa được xem là tính chất quan trọng nhất của chè xanh nhờ hàm lượng polyphenol cao trong thành phần hóa học. Trong số các polyphenol, nhóm chất catechin thể hiện hoạt tính oxy hóa mạnh nhất nhờ chứa nhiều nhóm hydroxyl trong cấu trúc phân tử. Các catechin tham gia phản ứng cho proton với các gốc oxy phản ứng (ROS) và sẽ bị oxy hóa để tạo thành các gốc tự to phenol-oxygen. Các gốc này bền do có cấu trúc catechol nên sẽ ức chế chuỗi phản ứng sinh ra ROS.[3] Ngoài ra, các catechin này còn giúp làm giảm các gốc tự do thông qua việc hoạt hóa các enzyme tham gia vào quá trình chống oxy hóa như superoxide dismutase (SOD), glutathione peroxidase (GSH-Px), và catalase (CAT). Trong số các catechin, ECG thể hiện hoạt tính oxy hóa cao nhất, theo sau là EGCG, EGC, và EC.[4]

Nhiều nghiên cứu dựa trên các phản ứng hóa học của polyphenol trong chè xanh với các tác nhân oxy hóa đã được thử nghiệm để sơ bộ đánh giá hoạt tính chống oxy hóa của polyphenol. Mô hình sử dụng phản ứng của polyphenol với 2,2-diphenyl-1-picrylhydrazyl (DPPH), phản ứng khử với đồng là các phương pháp hóa học cơ bản để đánh giá khả năng chống oxy hóa của polyphenol trong chè xanh. Hoạt tính chống oxy hóa và khả năng khử kim loại có mối liên hệ với nồng dộ polyphenol tổng số.[5] Nghiên cứu đánh giá hoạt tính chống oxy hóa của polyphenol sử dụng năng lực khử/oxy hóa sắt (FRAP) cho thấy mối liên hệ giữa hàm lượng các hợp chất phenol trong chè với FRAP. Kết quả cho thấy hoạt tính oxy hóa của chè xanh cao hơn so với các chè được lên men như chè oolong và chè đen.[6] Kết quả đánh giá khả năng chống oxy hóa của polyphenol trong chè xanh sử dụng chỉ số DPPH và FRAP cho thấy EGCG thể hiện hoạt tính oxy hóa mạnh nhất sau đó đến ECG, EGC và EC.[7]

Các nghiên cứu trên in vitroin vivo đã được thực hiện để đánh giá hoạt tính chống oxy hóa của polyphenol trong chè xanh, đặc biệt là tập trung vào hoạt chất EGCG là polyphenol chính thành phần của chè. Chao và cs đã chứng minh được EGCG làm giảm nồng độ ROS trong noãn của chuột bị tiêu đường và giảm thiểu các tác động xấu của bệnh tiểu đường đến chất lượng trứng nhờ khả năng làm tăng biểu hiện của các enzyme như superoxide dismutase 1, 2 (SOD1,2) và làm làm giảm tổn thương DNA trứng của chuột bị tiểu đường.[8] Nguyên bào sợi của da người khi tiếp xúc với tia cực tím ultraviolet A (UVA) sẽ dẫn đến quá trình lão hóa. Tia UVA ức chế quá trình sản sinh yếu tố tăng trưởng biến đổi beta 1 (TGF-β1), gây ra ngừng chu kỳ tế bào, giảm hoạt lực các enzyme chống oxy hóa và thúc đẩy sự hình thành các sản phẩm oxy hóa bất lợi như malondialdehyde (MDA) gây tổn hại tế bào. Khi xử lý tế bào nguyên bào sợi da bằng EGCG, các tổn thương do tia UVA gây ra với tế bào được giảm đáng kể. Điều đó khẳng định tác dụng chống lão hóa da của EGCG thông qua tác dụng điều hòa biểu hiện các gene điều khiển quá trình lão hóa da do tia UVA.[9]

Nghiên cứu in vivo đánh giá hoạt tính chống oxy hóa được thực hiện trên mô hình động vật bị tổn thương gan do carbon tetra hydrochloride CCl4, một chất độc gây tổn thương và ung thư gan. Khi cho chuột uống EGCG trong chè xanh sẽ làm giảm nồng độ men gan alanine aminotransferase (ALT) và malondialdehyde (MDA), tăng nồng độ glutathione (GSH) do đó làm giảm các triệu chứng của stress oxy hóa. Ngoài ra một số cytokine viêm sinh ra do tác động của CCl4 như yếu tổ hoại tử khối u alpha (TNFα), yếu tố nhân kappa B (NFκB), interleukin (IL1β), yếu tố tăng trưởng chuyển đổi (TGFβ) cũng được giảm đáng kể trong các mẫu sử dụng EGCG.[10] Nghiên cứu trên mô hình chuột bị tổn thương oxy hóa do tác động của sóng điện từ cho thấy khi chuột bị tác động vởi sóng điện từ trong thời gian dài sẽ gây ra các tổn thương oxy hóa. Việc sử dụng thường xuyên polyphenol trong chè xanh trong quá trình thử nghiệm giúp làm tăng các enzyme chống oxy hóa như CAT, GSH-Px và SOD đồng thời giảm nồng độ men gan MDA do tác động của sóng điện từ. Điều đó cho thấy tiềm năng của việc sử dụng polyphenol trong chè xanh để giảm thiểu các tác động oxy hóa do sóng điện cao tần gây ra.[11] Glutathione là một chất chống oxy hóa rất mạnh và được sử dụng nhiều trong các sản phẩm thực phẩm bảo vệ sức khỏe và mỹ phẩm để chống lão hóa nhờ khả năng trung hòa các gốc tự do hình thành trong tế bào do quá trình oxy hóa quá mức. Polyphenol trong chè xanh làm tăng hoạt tính của enzyme glutathione redutatse (GR) (enzyme chuyển glutathione từ dạng oxy hóa về dạng khử) và glutamyl cysteine syntherase (enzyme tổng hợp glutathione) trong cơ thể. Điều này giúp tăng hàm lượng glutathione cũng như kéo dài hoạt tính của glutathione trong quá trình khử các gốc tự do hình thành do stress oxy hóa trong cơ thể.[12]

3. Hoạt tính kháng viêm của polyphenol trong chè xanh

Viêm là phản ứng sinh học đầu tiên của hệ thống miễn dịch khi bị tác động bởi các yếu tổ bất lợi từ ngoại cảnh như tổn thương, nhiễm khuẩn hoặc các rối loạn chức năng các cơ quan do tổn thương hoặc stress oxy hóa. Phản ứng viêm là một cơ chế tốt giúp cơ thể chống lại tác động từ bên ngoài. Tuy nhiên phản ứng viêm quá mức có thể gây ra các tác động tiêu cực gây hại tế  bào và các cơ quan nội tạng. Sự cân bằng giữa các cytokine tiền viêm gồm IL1β, IL2, TNFα, Il6, IL8, interferon gamma (IFNγ) và các cytokine chống viêm như IL10, IL4, TGFβ là rất quan trọng để đánh giá cơ chế  hoạt động của hệ miễn dịch liên quan đến quá trình viêm và các bệnh do viêm.[13] Nhiều nghiên cứu đã được thực hiện để đánh giá tác dụng kháng viêm của polyphenol trong chè xanh nhờ khả năng ức chế quá trình tổng hợp các chemokine và các chất trung gian trong quá trình viêm như điều hòa enzyme mitogen-activated protesin kinase (MAPK), enzyme sản sinh nito oxyt (iNOS), lipoxygenase (LOX) và cyclooxygenase -2 (COX-2), ức chế NFκB và giảm sự tạo thành các ROS.[14]

 Trong các catechin của chè xanh, EGCG được nghiên cứu về tác dụng chống viêm nhiều hơn cả do hoạt chất này thề hiện hoạt tính chống viêm mạnh nhất trong nhóm. Nghiên cứu tác dụng của EGCG trong chè xanh trên mô hình viêm khớp cho thấy, khi xử lý tế bào xương khớp bằng IL1β (5 ng/ml) trong 24h để kích thích phản ứng viêm làm tăng đáng kể nồng độ NO và prostaglandin E2 (PGE2). Tuy nhiên, khi xử lý các tế bào xương bị viêm này bằng EGCG làm giảm đáng kể sự tạo thành NO và PGE2 thông qua ức chế enzyme iNOS và COX-2. Điều đó cho thấy, EGCG có tác dụng kháng viêm thông qua ức chế hoạt động của cytokine tiền viêm IL1β trong việc tạo ra NO và PGE2 trong các phản ứng viêm.[15] Các bệnh lý về thần kinh liên quan đến nhiều giai đoạn của vấn đề viêm não từ giai đoạn khởi phát đến các khuyết tật của não do viêm sau này. Khi cho chuột uống chiết xuất chè xanh giàu polyphenol EGCG, tình trạng viêm não của chuột do lipoprotein 139-151 gây ra được cải thiện về mặt lâm sàng. Các chuột được uống EGCG, quá trình tăng sinh và tạo thành TNF giảm rõ rệt ở các tế bào miễn dịch CD4+ T, giảm hoạt hóa NFκB và ngăn chặn sự tạo thành các ROS.[16]

Nghiên cứu tác dụng kháng viêm của polyphenol trong chè xanh được thực hiện trên mô hình tế bào nguyên bào sợi niêm mạc mũi và tế bào biểu mô phế quản. Việc xuất hiện quá mức các bạch cầu trung tính là phản ứng của cơ thể với các tác nhân gây viêm nhưng lại gây ra nhiều tác động xấu đối với tiến trình viêm. Quá trình viêm quá mức ở các tế bào đường hô hấp do bạch cầu trung tính được thể hiện bằng sự tạo thành các IL-8 thông qua kích thích IL1β. Khi xử lý các tế bào đường hô hấp bằng polyphenol trong chè xanh, quá trình hình thành IL-8 bị ức chế và làm giảm mức độ viêm. Polyphenol EGCG cũng khóa chu trình hoạt hóa NFκB do IL1β gây ra trong tế bào. [17] Trong bệnh liên quan đến viêm cơ tim, sự tập trung của bạch cầu trung tính trong mô dẫn đến tăng nồng độ myeloperoxidase và creatine phosphokinase trong huyết tương, đồng thời, nồng độ IL-6 trong huyết tương cũng tăng lên do sự kích hoạch NFκB và protein hoạt hóa 1 (AP-1) . Khi tiêm cho chuột bị viêm cơ tim bằng EGCG, nồng độ IL-6 và creatine phosphokinase trong huyết tương giảm thông qua ức chế chu trình liên quan NFκB và AP-1.[18]

Các nghiên cứu về tác dụng kháng viêm liên quan đến tác động lên các tế bào miễn dịch cũng được làm sáng tỏ. Sự tăng số lượng các tế bào miễn dịch như tế bào T hỗ trợ 1 (Th1), tế bào tiêu diệt tự nhiên (NK), thực bào, tế bào hình sao (DCs) là một cơ chế thể hiện hoạt tính kháng viêm của polyphenol [14]. Nhiên cứu trên mô hình tế bào miễn dịch sử dụng lợn con làm động vật thí nghiệm cho thấy polyphenol trong chè xanh thúc đẩy sự tăng sinh và kích hoạt các tế bào lympho T. Tỷ lệ tế bào CD4+/CD8+ tăng cao chứng tỏ sự phục hồi của các tổn thương miễn dịch do stress oxy hóa. Polyphenol của chè xanh làm giảm nồng độ IL-1 và IFNγ trong huyết thanh. Tuy nhiên các cytokine chống viêm như IL-4 lại tăng đáng kể điều này có thể là do sự chuyển dịch từ tế bào Th1 sang Th2. Điều này thể hiện khả năng điều hòa hệ miễn dịch của polyphenol trong chè xanh trong các phản ứng với hiện tượng viêm.[19]

4. Hoạt tính kháng khuẩn của polyphenol trong chè xanh

            Hoạt tính kháng khuẩn là một tác dụng quan trọng của polyphenol trong chè xanh. Do chứa nhiều nhóm hydroxyl trong cấu trúc phân tử, polyphenol có thể liên kết với lớp màng protein của vi khuẩn, thay đổi tính thấm của màng và phá vỡ cấu trúc lớp màng. Ngoài ra, polyphenol có thể điều chỉnh quá trình trao đổi chất của vi khuẩn, tạo ra các chất ức chế tăng trưởng, ức chế các enzyme nội bào và quá trình sinh tổng hợp acid nucleic.[20]

            Polyphenol trong chè xanh có thể ức chế quá trình tổng hợp các chất tạo thành màng tế bào vi sinh vật. β-lactam là nhóm chất có thể khóa quá trình hình thành màng tế bào thông qua việc ức chế protein liên kết với penicillin (PBPs), là protein tham gia vào quá trình tổng hợp màng peptidoglycan trong quá trình sinh trưởng và phát triển của vi sinh vật. EGCG có thể hiệp lực với các chất β-lactam trong việc thể hiện hoạt tính kháng khuẩn thông qua ức chế PBP2A, một protein tham gia vào quá trình tổng hợp màng tế bào vi khuẩn. Khi nghiên cứu chủng Staphylococus aureus kháng methicillin (MRSA), người ta thấy rằng khả năng chống lại các chất kháng sinh β-lactam của chủng này do có PBP2A và EGCG có thể hiệp đồng với β-lactam để thể hiện hoạt tính kháng khuẩn. Các chủng S. aureus mà không có gen mecA (gen điều khiển PBP2A) sẽ dễ dàng bị tiêu diệt bởi EGCG và methicillin. Khi bổ sung peptidoglycan vào môi trường nuôi cấy, khả năng diệt khuẩn của EGCG và β-lactam bị ức chế rõ rệt do peptidoglycan đã liên kết với EGCG. Khả năng kháng khuẩn của EGCG có thể do chúng liên kết trực tiếp với PBP2A và ức chế hoạt động của protein này.[21] EGCG thể hiện hoạt tính kháng khuẩn với Clostridium perfringen thông qua việc ức chế PBP3, protein tham gia vào quá trình phân bào của loại vi khuẩn này. Ở nồng độ thấp (250 mg/L), EGCG tác động đến quá trình duỗi DNA trong quá trình phân bào của vi khuẩn. Ở nồng độ cao hơn (1000mg/L), EGCG làm ngưng quá trình phân bào và sự sinh trưởng của tế bào vi khuẩn. EGCG có thể hiệp lực với cephalosporins ức chế PBP3 khi thể hiện hoạt tính kháng Cl. perfringen.[22]

            Tác dụng kháng khuẩn của polyphenol trong chè xanh thể hiện ở khả năng phá vỡ cấu trúc lớp màng tế bào vi sinh vật. Catechin có thể liên kết với màng tế bào làm vỡ lớp bảo vệ, giải phóng tế bào chất làm tế vi khuẩn bị chết. Liposome là một cấu trúc hình cầu gồm một hoặc nhiều lớp màng lipid được sử dụng để đánh giá khả năng kháng khuẩn của polyphenol thông qua cơ chế phá vỡ màng tế bào vi khuẩn. Khi xử lý các lyposome này bằng các catechin trong chè xanh, người ta quan sát thấy hiện tượng rò rỉ các chất ở trong liposome ra ngoài môi trường, điều đó chứng tỏ catechin đã phá vỡ lớp màng lipid của liposome. Các quan sát bằng kính hiển vi cho thấy nhiều liposne đã bị vỡ khi xử lý bằng EGCG.[23] Tác dụng phá vỡ cấu trúc màng tế bào vi khuẩn của polyphenol chè xanh với chủng pseudomonas aeruginosa được làm sáng tỏ. Kết quả cho thấy polyphenol làm tổn thương màng tế bào, tăng tính thấm của màng ngoài và màng trong, phá vỡ cấu trúc và giải phóng các chất trong nội bào. Kết quả nghiên cứu protein của màng tế bào cho thấy sự xuất hiện của nhiều protein bất thường trong ribosom như dihdrllpoamide dehydrogenase 50s. Điều đó cho thấy polyphenol đã gây ra rối loạn chuyển hóa trong tế bào làm tế bào vi khuẩn bị chết.[7]

            Polyphenol trong chè xanh tác động đến hệ thống các enzyme liên quan đến hoạt động sống của tế bào vi sinh vật. Enzyme tổng hợp acid béo loại II gồm BabB, FabF, FabG, FabZ, FabI, FabG là các enzyme chỉ được tìm thấy trong tế bào vi khuẩn. Catechin trong chè xanh ức chế FabI, và FabG với IC50 5-15µM. Trong trường hợp này, catechin tác động như một chất ức chế cạnh tranh cơ chất của enzyme thông qua liên kết giữa catechin với enzyme. Việc ức chế các enzyme này sẽ làm chậm lại quá trình sinh tổng hợp lipid để tạo cấu trúc màng tế bào và các thành phần khác trong tế bào vi khuẩn.[24] Deoxyribonucleic acid (DNA) gyrase là một enzyme xúc tác quá trình tạo chuỗi xoắn của DNA trong phản ứng thủy phân (adenosine triphosphate) ATP. DNA gyrase là enzyme đăc hiệu do chỉ có trong tế bào vi khuẩn. Catechin trong chè xanh ức chế hoạt động của enzyme này thông qua việc liên kết với đầu ATP trong cấu trúc phân tử của enzyme. Trong số các catechin, EGCG thể hiện hoạt tính ức chế enzyme DNA gyrase mạnh nhất do vòng benzopyran trong cấu trúc phân tử có thể tiến vào trung tâm hoạt động của enzyme và nhóm galloyl đóng vai trò mỏ neo để giữ phân tử EGCG trong phân tử enzyme.[25]

            Điều chỉnh biểu hiện các gene của vi khuẩn là một cơ chế mà polyphenol trong chè xanh thể hiện hoạt tính kháng khuẩn. EGCG kích thích sự biểu hiện của hai gene liên quan đến sửa chữa DNA, lexArecN trong tế bào P. aeruginosa. Điều này dẫn đến việc phá hủy DNA của vi khuẩn. Sự biểu hiện quá mức của các gene KatB, SodMOhR là các gene mã hóa cho các enzyme chống oxy hóa như catalase, superoxide dismuatese và organic hydroperoxidade cũng được phát  hiện chứng tỏ EGCG có thể tạo ra các stress oxy hóa trong tế bào vi khuẩn.[26] EGCG tác động đến sự biểu hiện của gene vraR, điểu khiển quá trình sinh tổng hợp màng peptidoglycan của tế bào S. aureus. Nồng độ enzyme cao sẽ làm cho lớp màng tế bào của vi khuẩn dày hơn và có thể chống lại các chất kháng sinh β-lactam và glycopeptide, là các kháng sinh sử dụng để diệt khuẩn thông qua tác động lên quá trình sinh tổng hợp màng tế bào. Kết quả này được chứng minh ở các chủng S. aureus mà không có gene vraR khả năng kháng kháng sinh oxacillin, vancomycin, và ampicillin rất thấp hoặc không thể hiện hoạt tính.[27]

5. Kết luận

Chè xanh là loại thức uống phổ biến ở nhiều nước với nhiều tác dụng sinh học do chứa nhiều các hợp chất polyphenol. Các polyphenol trong chè xanh đã được chứng minh có nhiều hoạt tính như khả năng chống oxy hóa, kháng viêm, kháng khuẩn. Các tác dụng sinh học đã được nghiên cứu bằng các phản ứng hóa học, các mô hình in vitroin vivo. Các hoạt tính sinh học của polyphenol có thể do tác động trức tiếp đến các thành phần tế bào, các cơ quan cũng như gián tiếp thông qua điều khiển các chu trình truyền tín hiệu và các phản ứng chuyển hóa trong tế bào. Để đánh giá các tác dung sinh học của polyphenol trong chè xanh ứng dụng trong y dược cần tiếp tục nghiên cứu và làm sáng tỏ các cơ chế của chung với các bệnh lý mãn tính trên mô hình in vivo và lâm sàng. Đồng thời, các vấn đề liên quan đến sinh khả dụng của polyphenol cũng cần được thảo luận để tạo ra các sản phẩm phục vụ chăm sóc sức khỏe con người.

Tài liệu tham khảo

[1]      Z. Yan, Y. Zhong, Y. Duan, Q. Chen, and F. Li, “Antioxidant mechanism of tea polyphenols and its impact on health benefits,” Anim. Nutr., vol. 6, no. 2, pp. 115–123, 2020, doi: 10.1016/j.aninu.2020.01.001.

[2]      L. Xing, H. Zhang, R. Qi, R. Tsao, and Y. Mine, “Recent Advances in the Understanding of the Health Benefits and Molecular Mechanisms Associated with Green Tea Polyphenols,” J. Agric. Food Chem., vol. 67, no. 4, pp. 1029–1043, 2019, doi: 10.1021/acs.jafc.8b06146.

[3]      R. R. Cardoso et al., “Kombuchas from green and black teas have different phenolic profile, which impacts their antioxidant capacities, antibacterial and antiproliferative activities,” Food Res. Int., vol. 128, no. August 2019, p. 108782, 2020, doi: 10.1016/j.foodres.2019.108782.

[4]      L. Zhang et al., “Oral administration of green tea polyphenols (TP) improves ileal injury and intestinal flora disorder in mice with Salmonella typhimurium infection via resisting inflammation, enhancing antioxidant action and preserving tight junction,” J. Funct. Foods, vol. 64, no. August 2019, p. 103654, 2020, doi: 10.1016/j.jff.2019.103654.

[5]      Y. Fukushima et al., “Coffee and green tea as a large source of antioxidant polyphenols in the Japanese population,” J. Agric. Food Chem., vol. 57, no. 4, pp. 1253–1259, 2009, doi: 10.1021/jf802418j.

[6]      I. F. F. Benzie and Y. T. Szeto, “Total antioxidant capacity of teas by the ferric reducing/antioxidant power assay,” J. Agric. Food Chem., vol. 47, no. 2, pp. 633–636, 1999, doi: 10.1021/jf9807768.

[7]      S. M. Yi, J. L. Zhu, L. L. Fu, and J. R. Li, “Tea polyphenols inhibit Pseudomonas aeruginosa through damage to the cell membrane,” Int. J. Food Microbiol., vol. 144, no. 1, pp. 111–117, 2010, doi: 10.1016/j.ijfoodmicro.2010.09.005.

[8]      S. Chao et al., “Epigallocatechin gallate improves the quality of diabetic oocytes,” Biomedicine and Pharmacotherapy, vol. 159. 2023. doi: 10.1016/j.biopha.2023.114267.

[9]      Y. Jia, Q. Mao, J. Yang, N. Du, Y. Zhu, and W. Min, “(–)-Epigallocatechin-3-Gallate Protects Human Skin Fibroblasts from Ultraviolet a Induced Photoaging,” Clin. Cosmet. Investig. Dermatol., vol. 16, no. January, pp. 149–159, 2023, doi: 10.2147/CCID.S398547.

[10]    G. Mostafa-Hedeab, M. Ewaiss Hassan, T. F. Halawa, and ِf. Ahmed Wani, “Epigallocatechin gallate ameliorates tetrahydrochloride-induced liver toxicity in rats via inhibition of TGFβ / p-ERK/p-Smad1/2 signaling, antioxidant, anti-inflammatory activity,” Saudi Pharm. J., vol. 30, no. 9, pp. 1293–1300, 2022, doi: 10.1016/j.jsps.2022.06.021.

[11]    N. A. Ahmed, N. M. Radwan, H. S. Aboul Ezz, and N. A. Salama, “The antioxidant effect of Green Tea Mega EGCG against electromagnetic radiation-induced oxidative stress in the hippocampus and striatum of rats,” Electromagn. Biol. Med., vol. 36, no. 1, pp. 63–73, 2017, doi: 10.1080/15368378.2016.1194292.

[12]    R. Masella, R. Di Benedetto, R. Varì, C. Filesi, and C. Giovannini, “Novel mechanisms of natural antioxidant compounds in biological systems: Involvement of glutathione and glutathione-related enzymes,” J. Nutr. Biochem., vol. 16, no. 10, pp. 577–586, 2005, doi: 10.1016/j.jnutbio.2005.05.013.

[13]    M. Boshtam, S. Asgary, S. Kouhpayeh, L. Shariati, and H. Khanahmad, “Aptamers Against Pro- and Anti-Inflammatory Cytokines: A Review,” Inflammation, vol. 40, no. 1, pp. 340–349, 2017, doi: 10.1007/s10753-016-0477-1.

[14]    N. Yahfoufi, N. Alsadi, M. Jambi, and C. Matar, “The immunomodulatory and anti-inflammatory role of polyphenols,” Nutrients, vol. 10, no. 11, pp. 1–23, 2018, doi: 10.3390/nu10111618.

[15]    S. Ahmed, A. Rahman, A. Hasnain, M. Lalonde, V. M. Goldberg, and T. M. Haqqi, “Green tea polyphenol epigallocatechin-3-gallate inhibits the IL-1β-induced activity and expression of cyclooxygenase-2 and nitric oxide synthase-2 in human chondrocytes,” Free Radic. Biol. Med., vol. 33, no. 8, pp. 1097–1105, 2002, doi: 10.1016/S0891-5849(02)01004-3.

[16]    O. Aktas et al., “Green Tea Epigallocatechin-3-Gallate Mediates T Cellular NF-κB Inhibition and Exerts Neuroprotection in Autoimmune Encephalomyelitis,” J. Immunol., vol. 173, no. 9, pp. 5794–5800, 2004, doi: 10.4049/jimmunol.173.9.5794.

[17]    I. B. Kim et al., “Inhibition of IL-8 production by green tea polyphenols in human nasal fibroblasts and A549 epithelial cells,” Biol. Pharm. Bull., vol. 29, no. 6, pp. 1120–1125, 2006, doi: 10.1248/bpb.29.1120.

[18]    R. Aneja, P. W. Hake, T. J. Burroughs, A. G. Denenberg, H. R. Wong, and B. Zingarelli, “Epigallocatechin, a green tea polyphenol, attenuates myocardial ischemia reperfusion injury in rats,” Mol. Med., vol. 10, no. 1–6, pp. 55–62, 2004, doi: 10.2119/2004-00032.aneja.

[19]    Q. Deng et al., “Effect of dietary tea polyphenols on growth performance and cell-mediated immune response of post-weaning piglets under oxidative stress,” Arch. Anim. Nutr., vol. 64, no. 1, pp. 12–21, 2010, doi: 10.1080/17450390903169138.

[20]    A. Renzetti, J. W. Betts, K. Fukumoto, and R. N. Rutherford, “Antibacterial green tea catechins from a molecular perspective: Mechanisms of action and structure-activity relationships,” Food Funct., vol. 11, no. 11, pp. 9370–9396, 2020, doi: 10.1039/d0fo02054k.

[21]    W. Zhao, Z. Hu, S. Okubo, and Y. Hara, “Mechanism of Synergy between Epigallocatechin Gallate and ␤-Lactams against Methicillin-Resistant Staphylococcus aureus,” Antimicrob. Agents Chemother., vol. 45, no. 6, pp. 1737–1742, 2001, doi: 10.1128/AAC.45.6.1737.

[22]    T. Noor Mohammadi et al., “Mechanism for antibacterial action of epigallocatechin gallate and theaflavin-3,3′-digallate on Clostridium perfringens,” J. Appl. Microbiol., vol. 126, no. 2, pp. 633–640, 2019, doi: 10.1111/jam.14134.

[23]    Y. Tamba, S. Ohba, M. Kubota, H. Yoshioka, H. Yoshioka, and M. Yamazaki, “Single GUV method reveals interaction of tea catechin (2)-epigallocatechin gallate with lipid membranes,” Biophys. J., vol. 92, no. 9, pp. 3178–3194, 2007, doi: 10.1529/biophysj.106.097105.

[24]    B. H. Li, R. Zhang, Y. T. Du, Y. H. Sun, and W. X. Tian, “Inactivation mechanism of the β-ketoacyl-[acyl carrier protein] reductase of bacterial type-II fatty acid synthase by epigallocatechin gallate,” Biochem. Cell Biol., vol. 84, no. 5, pp. 755–762, 2006, doi: 10.1139/O06-047.

[25]    H. Gradišar, P. Pristovšek, A. Plaper, and R. Jerala, “Green tea catechins inhibit bacterial DNA gyrase by interaction with its ATP binding site,” J. Med. Chem., vol. 50, no. 2, pp. 264–271, 2007, doi: 10.1021/jm060817o.

[26]    X. Liu, J. Li, Y. Yang, and X. Chen, “Exposure of Pseudomonas aeruginosa to green tea polyphenols enhances the tolerance to various environmental stresses,” World J. Microbiol. Biotechnol., vol. 28, no. 12, pp. 3373–3380, 2012, doi: 10.1007/s11274-012-1149-4.

[27]    O. Levinger, T. Bikels-Goshen, E. Landau, M. Fichman, and R. Shapira, “Epigallocatechin gallate induces upregulation of the two-component VraSR system by evoking a cell wall stress response in Staphylococcus aureus,” Appl. Environ. Microbiol., vol. 78, no. 22, pp. 7954–7959, 2012, doi: 10.1128/AEM.02253-12.

Bài viết liên quan

Đăng ký gửi mẫu miễn phí

Liên hệ với IRDOP

Đăng ký nhận khuyến mãi