Tổng quan về cây viễn chí
Viễn chí (Polygala) hay Khổ viễn chí (Trấn Nam Bản Thảo), trong Dược điển Trung Quốc gọi là Tỉnh tâm trượng, A chỉ thảo, Khổ yêu, Dư lương, Viễn chí nhục… Ở Việt Nam có nhiều loài Viễn chí như Polygala japonica Houtt., Polygana sibirica L.. nhưng vẫn chưa được khai thác tương xứng với giá trị mà chúng mang lại. Cây Viễn chí Polygana japonica hay còn gọi là nam Viễn chí hay tiểu thảo.
Chi Polygala là chi lớn nhất trong họ Viễn chí (Polygalaceae). Chúng phân bố ở cấc châu lục ngoài trừ hai vùng cực và New Zealand. Trong đó, các loài phổ biến được ghi lại bao gồm: P. tenuifolia, P. japonica, P. senega, P. paniculata, P. sabulosa,… Trong các bài thuốc y học cổ truyền trên toàn thế giới, Viễn chí được sử dụng nhằm mục đích cải thiện trí nhớ, điều trị ho, kháng viêm, bồi bổ sức khoẻ. [1]
Đặc điểm thực vật và phân bố của cây viễn chí
Cây thảo có chiều cao từ 10-20cm. Cành có ngay từ gốc, nhỏ, hình sợi mọc lan ra, phía trên có 1 lớp lông mịn. Lá mọc so le, nhiều dạng. Lá phía dưới hình bầu dục rộng 4-5mm, lá phía trên hình dải, đầu nhọn dài 20mm, rộng 3-5mm, mép lá cuốn xuống mặt dưới. Hoa mọc thành chùm gầy, ngắn. Hoa xanh nhạt ở dưới, trắng ở giữa và tím ở đỉnh. Quả nang, nhẵn hình bầu dục. Cây thường mọc hoang ở khu vực Bắc Thái, Thanh Hoá, Nam Hà.
Viễn chí phân bố hầu hết ở khắp nơi trên thế giới trừ hai vùng cực Bắc Nam và New Zealand. Nam Mỹ được xem là nơi tập trung nhiều Viễn chí nhất trên thế giới, tiếp đến là khu vực châu Phi và châu Á. Có 44 loài thuộc chi Polygala được tìm thấy tại Trung Quốc. Ở Việt Nam, ghi nhận một số loài Polygana phân bố chủ yếu ở các vùng núi cao từ Bắc vào Nam[1]. Trong cuốn “Cây cỏ Việt Nam”, Viễn chí hay có tên gọi là Kích nhũ có tổng 25 loài chủ yếu phân bố từ phía Tây Bắc (Lào Cai, Tam Đảo, Ba Vì) tới Tây Nguyên (Đà Lạt) và Nam Trung Bộ (Đồng Nai)[2]. Trong cuốn sách “Từ điển cây thuốc Việt Nam”, tác giả Võ Văn Chi mô tả 13 loài Polygala dùng làm thuốc trong y học dân gian với tên gọi Viễn chí[3]. Tác giả Đỗ Tất Lợi cũng liệt kê ra 07 loài Polygala ở nước ta[4].
Thành phần hoá học
Cho đến này, các nhà khoa học trên thế giới đã phân lập được gần 400 hợp chất trong các loài thuộc chi Polygala. Các hợp chất tinh khiết đã phân lập được thuộc các nhóm xanthone, saponin, oligosaccharid (phenolic glycosid) và một số nhóm chất khác[1].
Xanthone
Có khoảng 80 hợp chất xanthone đã được phân lập thành công từ các loài thuộc chi Polygala như P. japonica, P. caudata, P. cyparissias, P. tenuifolia,… và chủ yếu trong rễ của chúng. Chúng tồn tại dưới dạng aglycon hoặc glycosid. Trong số 80 xanthone đã phân lập, có 47 xanthone aglycon và 33 xanthone glycosid. Có 67 xanthon tồn tại dưới dạng khung cơ bản, 10 xanthone có nhóm methylendioxy, 03 xanthone glycosid có cấu trúc đặc biệt mang nhóm transdihydrobenzofuran và acid 2-hydroxymethyl-5-hydroxyl-2-pentenoic[1]. Xanthones bao gồm 1,2,3-Trihydroxy-6,7-dimethoxy xanthone, 1,2,3,6,7- pentahydroxy xanthone và 6-hydroxy-1,2,3,7-tetramethoxy xanthone. Các sterol bao gồm 3α-O-β-pyranoglucosyl spinasterol. Các flavonoid như 3’,4’-dimethoxy-7-diglucosyl-O-methylenoxy-5-hydroxyl flavol. [5]
Saponin
Có 105 hợp chất saponin được phân lập và xác định cấu trúc trong Viễn chí là các aglycon thuộc khung olean (101 hợp chất) và khung ursan (4 hợp chất) [1]. Các nghiên cứu trước đây cho thấy P. japonica là một nguồn cung dồi dào các hợp chất saponin, trong đó một số saponin có tác dụng an thần, kháng viêm, bảo vệ tế bào thần kinh. Các saponin tenuigenin, senegenin và senegenin III , polygalasaponin F tenuifoside A, và polygala saponin XXXII được tìm thấy trong rễ cây Viễn chí. [6]
Oligosaccharide
Nghiên cứu trên các loài P. senega, P. tenuifolia, P. arillata, P. sibirica, P. glomerata, P. reinii, P. tricornis, P. watersii, … đã tìm thấy khoảng 112 hợp chất oligosaccharide. Các hợp chất này chủ yếu mang khung α-D-glucopyranosyl-(1→2)-β-D-fructofuranose (sucrose). Các oligosaccharide đã phân lập được este hóa với các dẫn xuất của acid cinnamic (cả 02 dạng đồng phân cis và trans), dẫn xuất của acid benzoic và acid acetic. Vì vậy, các hợp chất này có thể được xếp vào nhóm hợp chất phenolic glycoside[1].
Rễ Polygana tenufolia chứa Tenuifolisides A, B và C (estesucrose) được cho là có tác dụng bảo vệ thần kinh. Hợp chất 3,6’-disaponylsucrose, một phân tử sucrose acetyl hoá chính trong rễ. [6]
Ứng dụng cây viễn chí trong y học cổ truyền
Trong y học cổ truyền Việt Nam, P. japonica được sử dụng để điều trị viêm phế quản, mất trí nhớ, biếng ăn, và có ảnh hưởng tốt đến thận. Trong y học cổ truyền Trung Quốc, P. japonica đã được sử dụng trong như là thuốc long đờm, kháng viêm, kháng khuẩn, giảm đau, và thuốc an thần. Cây thuốc này được sử dụng để điều trị một số chứng viêm, như viêm amiđan, viêm họng, viêm tủy, và viêm thận[1].
Các loài thuộc chi Polygala được sử dụng làm thuốc trong y học cổ truyền ở nhiều quốc gia từ lâu đời. Chúng được sử dụng làm thuốc bổ, chủ yếu trong điều trị các bệnh suy giảm trí nhớ, mất ngủ, ho, viêm họng, viêm thấp khớp… Các kết quả nghiên cứu dược lý chỉ ra rằng các loài trong chi Polygala có tác dụng chống viêm, tác dụng trên hệ thần kinh trung ương, tác dụng giải độc, chống ung thư, giảm đau, chống ôxy hóa, hạ đường huyết… [7]
Rễ của loài P. japonica được sử dụng trong y học cổ truyền ở một số quốc gia châu Á như Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam. Ở Việt Nam, P. japonica được sử dụng để chữa ho nhiều đờm, trị chứng suy giảm giảm trí nhớ, liệt dương, làm sáng mắt, thính tai. Ở Trung Quốc, loài này được sử dụng trong các trường hợp viêm họng, đau tức ngực, khó ngủ, suy nhược thần kinh, mụn nhọt, ghẻ lở, rắn độc cắn.
Hoạt tính sinh học
Nghiên cứu dược lý hiện đại đã chứng minh rằng các thành phần trong cây Viễn chí có nhiều lợi ích như cải thiện nhận thức, hiệu quả chống loạn thần tiềm năng, hoạt động chống oxy hóa và tác dụng chống viêm[8].
Bảo vệ hệ thống tim mạch
Trong P.tenuifolia có rutin và quercetin làm giảm hàm lượng cholesterol trong máu và bảo vệ thành mạch[9]. Reinioside C (một loại saponin) tách chiết từ Viễn chí có tác dụng hạ mỡ máu mạnh khi đượcthử nghiệm trên chuột. Cụ thể, reinioside C có khả năng chống oxy hóa lipoprotein tỉ trọng thấp (LDL) và làm giảm sự tích tụ của các cholesterol trong đại thực bào. Reinioside C được xem là nguồn nguyên liệu tiềm năng trong việc phát triển thuốc hạ mỡ máu, bảo vệ thành mạch[10].
Bảo vệ hệ thống thần kinh trung ương
Các nghiên cứu tiến hành với cao chiết rễ từ P.tenuifolia cho thấy chúng chứa hoạt chất có khả năng điều trị chứng mất trí nhớ, mất ngủ và lo lắng ở người. Cụ thể, cao chiết phân đoạn butanol và ethanol có khả năng làm giảm hàm lượng lactate và mức độ peroxide hóa lipid, từ đó làm giảm hiện tượng thoái hóa thần kinh, giảm tổn thương não trong thiếu máu cục bộ và tăng cường tuần hoàn não[11].
Seung Huyn Kim và cs đã tìm ra các hợp chất xanthone có trong dịch chiết methanol của rễ cây P. tenuifolia có khả năng ức chế từ đó làm giảm lượng nitricoxide (NO) đáng kể ở trong cơ thể. Khí NO rất quan trọng trong một số quá trình sinh lý của cơ thể nhưng hàm lượng khí NO quá nhiều lại gây ra các rối loạn thoái hóa thần kinh, là nguyên nhân gây nên các bệnh Alzheimer hoặc bệnh Parkinson. Vì vậy, việc phân lập ra các hợp chất xanthone có trong dịch chiết rễ Viễn chí có tiềm năng rất lớn trong việc phòng ngừa và điều trị viêm liên quan đến rối loạn thoái hóa thần kinh ở người[12].
Tác dụng chống trầm cảm
Trong những năm gần đây bệnh trầm cảm, lo lắng, loạn thần kinh ngày một tăng, tỷ lệ người mắc tăng lên. Bởi vậy, nhiều loại thuốc điều trị trầm cảm đã được sản xuất nhưng đa số những loại thuốc này đều được tổng hợp bằng con đường hóa học nên tiềm ẩn nhiều nguy cơ có hại cho sức khỏe. Do đó, nhiều nghiên cứu đã được tiến hành nhằm tìm ra các thành phần hoạt chất có nguồn gốc từ thiên nhiên để tăng tác dụng điều trị và an toàn hơn.
Thành phần hóa học oligosaccharide từ rễ cây P.tenuifolia bao gồm polygalatenoside A, polygalatenoside B, polygalatenoside C, polygalatenoside D và polygalatenoside E.Các oligosaccharide có khả năng ức chế RTI-55 (một chất ức chế tái hấp thu dopamine không chọn lọc có nguồn gốc từ methylecgonidine) gắn với protein trong vận chuyển norepinephrine. Từ đó làm giảm lượng norepinephrine trong não, giúp giảm sự lo âu, bồn chồn, lo lắng ở người bệnh trầm cảm, giúp người bệnh có thể hòa nhập lại với cuộc sống hằng ngày. Việc tìm thấy các hợp chất oligosaccharide ở loài P.tenuifolia đã mở ra hướng phát triển mới cho việctìm ra thuốc điều trị bệnh trầm cảm với hiệu quả cao cũng như an toàn hơn cho con người[13].
Hoạt tính Kháng viêm
Trong chi Polygala, loài P.japonica chủ yếu được nghiên cứu về tác dụng chống viêm. Kết quả cho thấy dịch chiết của loài này có khả năng điều trị được viêm amidan, viêm họng cấp cũng như viêm loét miệng hay một số viêm nhiễm khác. Cụ thể, thí nghiệm trên chuột cho thấy, cao mềm loài P. japonica gây ức chế đáng kể tính thấm của phúc mạc và mao dẫn trên da gây ra bởi acid acetic và phosphathistamin, cũng như có khả năng ức chế sự phù chân ở chuột gây ra bởi phosphathistamin. Do đó, người ta cho rằng cao chiết loài P.japonica có tác dụng chống viêm nhiễm do dịch chiết có khả năng ức chế sự giải phóng histamin trong cơ thể mà histamin lại đóng một vai trò quan trọng trong phản ứng quá mẫn trong các loại viêm như viêm gan hay viêm khớp ở người[14].
Dịch chiết rễ của P. tenuifolia cũng có khả năng làm giảm mức độ viêm đồng thời bảo vệ trực tràng . Hongming và các cộng sự đã phân lập ra được tenuigenin (TNG) từ rễ loài P. tenuifolia. Kết quả cho thấy hợp chất này có tác dụng làm giảm khả năng tổng hợp các chất trung gian gây viêm như prostaglandinE2 (PGE2) và NO, từ đó ức chế sự biểu hiện của iNOS và COX2 trong đại thực bào, dẫn tới giảm tình trạng viêm của cơ thể[15].
Trong một nghiên cứu nhằm tìm ra hợp chất chống viêm trong dịch chiết MeOH 70% từ rễ của P. tenuifolia cho thấy tác dụng ức chế đáng kể đối với sản xuất NO do LPS gây ra trong đại thực bào RAW 264,7 (tỷ lệ ức chế 32,66% ở 100 µg/mL). Mặc dù thực tế là các thành phần hóa học của P. tenuifolia đã được xác định là tác nhân chống viêm mạnh[16].
Hoạt động chống viêm bằng cách ức chế carrageenan gây ra phù chân cấp tính ở chuột và hoạt tính kháng khuẩn của bayogenin và saponin loại axit medicagenic ở P. japonica đã được báo cáo[17].
Khả năng chống oxy hoá
Hầu hết các loài trong chi Polygala đều có các hợp chất polyphenol như avonoid, xanthone, saponin, v.v. có tác dụng loại bỏ dễ dàng các gốc tự do và chống oxy hóa[18]. Các nhà khoa học đã tìm thấy được một số hợp chất có trong dịch chiết toàn cây P.javana như squalene hay phytol. Trong đó, squalene đã được thử nghiệm và chứng tỏ khả năng chống oxy hóa tốt. Ngoài ra, squalene còn có khả năng phòng chống ung thư ruột kết ở người. Phytol có tác dụng hiệu quả trong việc điều trị các giai đoạn của viêm khớp nên tạo tiền đề cho việc phát triển các thuốc giúp phòng ngừa và điều trị các bệnh về viêm khớp dạng thấp hay viêm khớp mãn tính ở người[19].
Khẳ năng chống ung thư
Cao chiết rễ cây P.tenuifolia có khả năng phục hồi các tế bào gan bị ngộ độc bởi rượu, đồng thời ức chế độc tính rượu và IL-1a, cũng như ức chế quá trình chết tế bào theo chương trình (apoptosis) của tế bào gan[20].
Nghiên cứu trên loài P.senega chỉ ra rằng các thành phần hóa học saponin glycosides,acid polygalic và senegin có khả năng ức chế đáng kể sự tăng sinh của tế bào, thúc đẩy nhanh hơn quá trình apoptosis và làm hoại tử các dòng tế bào ung thư phổi A549. Khi thử nghiệm cao chiết ethanol từ P. senega, các nhà khoa học đã nhận thấy cao chiết này có ái lực cao với các tế bào ung thư khiến cho chúng bị tiêu diệt, đồng thời chúng lại ít gây tác dụng lên tế bào bình thường. Vì vậy người ta gợi ý việc sử dụng dịch chiết của P.senega trong điều trị ung thư phổi[21].
Hoạt tính kháng virus, kháng khuẩn
Nghiên cứu của Li Yao-Lan và cộng sự đã chứng minh ba hợp chất xanthone được phân lập từ dịch chiết của loài P.fallax là 1,3-dihydroxy2-methylxanthone, 1,3-dihydroxy xanthone, 1,3-dihydroxy-2-methoxyxanthone có tác dụng kháng 2 chủng virus thử nghiệm là Herpessimplex type 1 (HSV-1) và virus B3 coxsackie 13 (Cox B3). Hai chủng virus trên là nguyên nhân gây bệnh mụn rộp da và bệnh chân tay miệng. Nghiên cứu còn chỉ ra rằng các dẫn xuất của xanthone có nhóm chức1,3-dihydroxy cũng có tác dụng kháng cả 2 loại virus nêu trên[22]. Ngoài ra, cao mềm của dịch chiết loài P. japonica đã được chứng minh là có tác dụng kháng khuẩn, ức chế sự phát triển của một số vi khuẩn như Staphylococcus aureus, Bacillus subtilis, Staphylococcus haemolyticus, Diplococcus pneumon.[23]
Kết luận
Viễn chí là loại dược liệu được trồng ở nhiều nơi trên thế giới và Việt Nam. Với thành phần chính là các saponin, xanthone, oligosacharide, flavonoid, anthraquinon, coumarin, benzophenon, sterol, styrylpyron, lignan. Trong đó, các hoạt chất chính trong chi Viễn chí bao gồm tenuifolin, polygalasaponin. Các hợp chất này đã được chứng minh có tác dụng bảo vệ hệ thần kinh, giảm sa sút trí nhớ, bảo vệ hệ tim mạch, kháng viêm, chống oxy hóa và kháng khuẩn. Viện Nghiên cứu và phát triển sản phẩm thiên nhiên (IRDOP) đã xây dựng và thẩm định phương pháp kiểm nghiệm các hoạt chất trong cây Viễn chí như saponin, Polygalasaponin F, tenuifolin làm cơ sở để nghiên cứu giá trị y dược và xây dựng tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm từ dược liệu Viễn chí.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Đoàn Thái Hưng, “Nghiên cứu thành phần hóa học và một số tác dụng sinh học của loài viễn chí hoa vàng Polygala arillata buch,” Viện Dược liệu, pp. 1–38, 2019.
[2] Phạm Hoàng Hộ, “Cây cỏ Việt Nam,” Vol 2. p. 952, 2003.
[3] Võ Văn Chí, “Từ điển cây thuốc Việt Nam.” 2012.
[4] Đỗ Tất Lợi, “Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam.” 2004.
[5] S. Y. Yoo, T. K. Van Le, J. J. Jeong, and D. H. Kim, “Poligapolide, a PI3K/Akt inhibitor in immunodeficiency virus type 1 TAT-transduced CHME5 cells, isolated from the rhizome of Polygala tenuifolia,” Chem. Pharm. Bull., vol. 62, no. 5, pp. 467–471, 2014, doi: 10.1248/cpb.c13-00958.
[6] Y. Ling, Z. Li, M. Chen, Z. Sun, M. Fan, and C. Huang, “Analysis and detection of the chemical constituents of Radix Polygalae and their metabolites in rats after oral administration by ultra high-performance liquid chromatography coupled with electrospray ionization quadrupole time-of-flight tandem mass spect,” J. Pharm. Biomed. Anal., vol. 85, no. October 2009, pp. 1–13, 2013, doi: 10.1016/j.jpba.2013.06.011.
[7] Nguyễn Văn Tâm, “Nghiên cứu độc tính, tác dụng an thần trên thực nghiệm và điều trị mất ngủ không thực tổn trên lâm sàng của cao lỏng Dưỡng tâm an thần,” pp. 113–135, 2019.
[8] B. Ma et al., “Quantitative analysis of tenuifolin concentrations in rat plasma and tissue using LC-MS/MS: Application to pharmacokinetic and tissue distribution study,” J. Pharm. Biomed. Anal., vol. 88, pp. 191–200, 2014, doi: 10.1016/j.jpba.2013.07.012.
[9] F. D. R. Lapa et al., “Antinociceptive properties of the hydroalcoholic extract and the flavonoid rutin obtained from Polygala paniculata L. in Mice,” Basic Clin. Pharmacol. Toxicol., vol. 104, no. 4, pp. 306–315, 2009, doi: 10.1111/j.1742-7843.2008.00365.x.
[10] W. Jee, S. H. Lee, H. M. Ko, J. H. Jung, W. S. Chung, and H. J. Jang, “Anti-obesity effect of polygalin c isolated from polygala japonica houtt. Via suppression of the adipogenic and lipogenic factors in 3t3-l1 adipocytes,” Int. J. Mol. Sci., vol. 22, no. 19, 2021, doi: 10.3390/ijms221910405.
[11] M. H. Jang, X. L. Piao, J. M. Kim, S. W. Kwon, and J. H. Park, “Inhibition of cholinesterase and amyloid-&bgr; aggregation by resveratrol oligomers from Vitis amurensis,” Phyther. Res., vol. 22, no. 4, pp. 544–549, 2008, doi: 10.1002/ptr.
[12] S. H. Kim, S. D. Jang, K. Y. Lee, S. H. Sung, and Y. C. Kim, “Chemical constituents isolated from Polygala japonica leaves and their inhibitory effect on nitric oxide production in vitro,” J. Enzyme Inhib. Med. Chem., vol. 24, no. 1, pp. 230–233, 2009, doi: 10.1080/14756360802051362.
[13] M. C. Cheng, C. Y. Li, H. C. Ko, F. N. Ko, Y. L. Lin, and T. S. Wu, “Antidepressant principles of the roots of polygala tenuifolia,” J. Nat. Prod., vol. 69, no. 9, pp. 1305–1309, 2006, doi: 10.1021/np060207r.
[14] J. Kou, M. Si, G. Dai, Y. Lin, and D. Zhu, “Antiinflammatory activity of Polygala japonica extract,” Fitoterapia, vol. 77, no. 6, pp. 411–415, 2006, doi: 10.1016/j.fitote.2006.04.011.
[15] H. Lv et al., “Tenuigenin exhibits anti-inflammatory activity via inhibiting MAPK and NF-κB and inducing Nrf2/HO-1 signaling in macrophages,” Food Funct., vol. 7, no. 1, pp. 355–363, 2016, doi: 10.1039/c5fo00807g.
[16] N. Cho et al., “Chemical constituents of Polygala tenuifolia roots and their inhibitory activity on lipopolysaccharide-induced nitric oxide production in BV2 microglia,” J. Enzyme Inhib. Med. Chem., vol. 27, no. 1, pp. 1–4, 2012, doi: 10.3109/14756366.2011.562203.
[17] H. Wang, J. Gao, D. Zhu, and B. Yu, “Quality evaluation of Polygala japonica through simultaneous determination of six bioactive triterpenoid saponins by HPLC-ELSD,” J. Pharm. Biomed. Anal., vol. 43, no. 4, pp. 1552–1556, 2007, doi: 10.1016/j.jpba.2006.11.012.
[18] R. Cervellati, G. Innocenti, S. Dall’Acqua, S. Costa, and E. Sartini, “Polyphenols from polygala spp. and their antioxidant activity,” Chem. Biodivers., vol. 1, no. 3, pp. 415–425, 2004, doi: 10.1002/cbdv.200490035.
[19] V. Priya, R. Jananie, and K. Vijayalakshmi, “Gc/Ms Determination of Bioactive Components of Pleurotus Ostreatus,” Int. Res. J. Pharm., vol. 3, no. 3, pp. 150–151, 2012.
[20] H. N. Koo et al., “INHIBITORY EFFECT OF INTERLEUKIN-la-INDUCED,” vol. 22, no. 3, 2000.
[21] A. R. Khuda-Bukhsh, S. Paul, S. S. Bhattacharyya, and N. Boujedaini, “Anticancer potentials of root extract of Polygala senega and its PLGA nanoparticles-encapsulated form,” Evidence-based Complement. Altern. Med., vol. 2011, 2011, doi: 10.1155/2011/517204.
[22] Y.-L. Li, J. Dai, W.-H. Huang, Y.-Z. Cen, X.-Q. Zhang, and W.-C. Ye, “Chemical constituents and antiviral activity of Polygala fallax,” Chinese Tradit. Herb. Drugs, vol. 40, pp. 345–348, Mar. 2009.
[23] “Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam tập 2.pdf.”
Nguồn: https://www.irdop.org/
Nếu có bất kỳ thắc mắc nào, vui lòng liên hệ để được hỗ trợ
– Zalo: https://zalo.me/1907057677034304788
– Hotline: 024 3553 5355
– Fanpage: https://www.facebook.com/Organicinstitute
– Website: https://www.irdop.org/